Từ vụ mì ăn liền bị cảnh báo ở EU: Doanh nghiệp xuất khẩu cần lưu ý gì?
Để tránh thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng lâu dài đến uy tín của mình, doanh nghiệp xuất khẩu cần hết sức thận trọng, tìm hiểu kỹ về các quy định, các biện pháp TBT, SPS liên quan đến sản phẩm của từng thị trường.
Nhiều lần bị EU cảnh báo
Đức, Ba Lan, Malta vừa gửi cảnh báo, thu hồi hoặc trả lại sản phẩm mì ăn liền hương vị gà, mì ăn liền hương vị cà ri, bánh phở nhập khẩu từ Việt Nam do vi phạm quy định về an toàn thực phẩm của Liên minh châu Âu (EU).
Cụ thể, Đức gửi cảnh báo sản phẩm mì ăn liền hương vị gà, mì ăn liền hương vị cà ri của Công ty cổ phần thực phẩm Á Châu (TP Thuận An, tỉnh Bình Dương) chứa chất ethylene oxide (EO) vượt ngưỡng quy định của EU.
Ba Lan cảnh báo sản phẩm mì ăn liền vị gà của Công ty cổ phần Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam (Vifon, quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh) và nước này đã trả lại lô hàng.
Malta cảnh báo sản phẩm bánh phở hiệu Nguyễn Gia. Malta xác định mối nguy là sản xuất từ gạo biến đổi gene trái phép nên đã thực hiện biện pháp giám sát và thu hồi sản phẩm.
Trước đó, từ tháng 9/2020, nhiều quốc gia EU đã phát hiện dư lượng EO trong các lô hạt vừng vượt nhiều lần so với ngưỡng giới hạn cho phép. Tại một số quốc gia, EO thường được sử dụng trong chế biến nông sản để hun trùng.
Vì vậy, EU đã nhanh chóng mở rộng hoạt động kiểm tra dư lượng ra nhiều nhóm mặt hàng chế biến, trong đó một số lô hàng mì ăn liền sản xuất tại Việt Nam và Hàn Quốc đã phát hiện có dư lượng EO vượt ngưỡng.
Kể từ tháng 1/2022, EU đã tăng tần suất kiểm tra đối với mặt hàng mì ăn liền xuất xứ từ Việt Nam lên 20% và yêu cầu mỗi lô hàng cần kèm theo chứng thư cấp bởi cơ quan quản lý nhà nước tại Việt Nam xác nhận đạt yêu cầu của EU về dư lượng EO dựa trên kết quả kiểm nghiệm.
Những vụ việc này đã nêu một thực tế, để đáp ứng các yêu cầu của khu vực nhập khẩu, doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động nắm bắt, cập nhật và có kế hoạch thích ứng với các quy định của khu vực đối tác, để tránh vi phạm những quy định của nước sở tại liên quan đến giới hạn an toàn của sản phẩm và các quy định khác về hàng rào kỹ thuật.
Theo Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương, thương mại quốc tế giữa các quốc gia, khu vực nói chung bị điều chỉnh bởi hệ thống các hiệp định thương mại tự do được ký kết ở cấp độ song phương hoặc đa phương. Bên cạnh đó, bất kỳ sản phẩm, hàng hóa xuất nhập khẩu còn bị điều chỉnh bởi hệ thống các quy định của mỗi quốc gia.
Các hệ thống quy định tại Hiệp định thương mại tự do hay tại quy định quốc gia thông thường sẽ bao gồm các “hàng rào phi quan thuế” và “hàng rào thuế quan”. Khi mà các Hiệp định thương mại tự do được ký kết ngày càng nhiều, các “hàng rào thuế quan” gần như được dỡ bỏ theo nguyên tắc chung là tạo thuận lợi tối đa cho thương mại.
Do đó, các vấn đề về thuế, hải quan, hạn ngạch, các thủ tục hành chính, điều kiện gia nhập thị trường… không còn thực sự là trở ngại lớn đối với bất kỳ nhà đầu tư, nhà sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu.
Tuy nhiên, thay vào đó, vì nhiều mục tiêu khác nhau như bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật, các vấn đề môi trường, lợi ích quốc gia bao gồm an ninh, quốc phòng và kể cả lợi ích kinh tế, các nước sẽ tăng cường việc xây dựng các “hàng rào kỹ thuật về TBT” (“biện pháp TBT”) và “các biện pháp an toàn, vệ sinh động thực vật” (“biện pháp SPS”).
Đây chính là một trong những loại hàng rào phi thuế quan và được quy định chặt chẽ về quy trình xây dựng, áp dụng, cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến xây dựng, ban hành và áp dụng các biện pháp kỹ thuật này bởi Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Tuy nhiên, các biện pháp TBT và SPS cũng thể hiện những mục tiêu khác nhau của mỗi nước (bảo vệ lợi ích công cộng, cam kết xã hội, thúc đẩy thương mại…) và cũng phản ánh những đặc trưng khác nhau của mỗi nước (đặc biệt về điều kiện địa lý, trình độ phát triển, nhu cầu thương mại và tài chính…).
Vì thế, cho đến nay, chưa một thể chế thương mại nào, kể cả WTO có thể thống nhất về một bộ các biện pháp kỹ thuật chung cho bất kỳ loại hàng hoá nào mà chỉ có thể đưa ra các nguyên tắc chung các nước phải tuân thủ khi thông qua và thực thi các biện pháp kỹ thuật đối với hàng hoá.
Đây chính là lý do vì sao các nước khác nhau có thể áp dụng mức giới hạn an toàn khác nhau cho cùng một sản phẩm, hàng hóa. Do đó, với cùng một tiêu chuẩn áp dụng, nhưng sản phẩm đó có thể được chấp nhận và phù hợp với quy định của nước này nhưng lại không được chấp nhận và phù hợp với quy định của nước kia, dẫn đến yêu cầu bắt buộc về thu hồi sản phẩm.
Làm gì để tránh rơi vào vi phạm các biện pháp TBT và SPS?
Mặc dù vậy, việc tránh để rơi vào tình huống vi phạm các biện pháp TBT và SPS của nước nhập khẩu dẫn đến các quyết định thu hồi hoặc nghiêm trọng hơn là bị kiện bồi thường gây thiệt hại nghiêm trọng cho doanh nghiệp là hoàn toàn có thể chủ động. Đối với hệ thống kinh tế quốc gia, có rất nhiều chủ thể, thành phần có thể hỗ trợ được doanh nghiệp trong quá trình này.
Doanh nghiệp cần tìm hiểu và biết đến sự hiện diện, tầm quan trọng và vai trò của các bên để có thể tham vấn trước khi quyết định xuất khẩu hàng hóa vào thị trường của bất kỳ quốc gia nào. Tất nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa đó vẫn đóng vai trò then chốt trong việc đưa ra quyết định của mình.
Cụ thể hơn, về phía doanh nghiệp, một số việc quan trọng cần chủ động như: Nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại, tìm hiểu các thông tin về biện pháp TBT, SPS của các quốc gia nhập khẩu để điều chỉnh hoạt động sản xuất của mình.
Bên cạnh đó, tăng cường khả năng cạnh tranh và có thể đáp ứng các yêu cầu của thị trường nhập khẩu; mở rộng, tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước, giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các tổ chức đa quốc gia.
Đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá xuất khẩu. Chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi trường như ISO, 5S, HACCP, GMP… nhằm chuẩn hóa đầu ra theo yêu cầu từ phía các nước nhập khẩu.
Doanh nghiệp cần thường xuyên rà soát, đánh giá các nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến an toàn, chất lượng của sản phẩm do mình sản xuất trên cơ sở tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm trong suốt quá trình xuất hiện, tồn tại của sản phẩm từ khi sản xuất đến tay người tiêu dùng. Đồng thời, cần xây dựng phương án khắc phục các sự cố làm ảnh hưởng đến an toàn, chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Đối với sản phẩm thực phẩm, việc nghiên cứu, rà soát và kiểm soát các mối nguy trong quá trình sản xuất là vô cùng quan trọng bởi việc quản lý quy trình sản xuất thực phẩm là một trong những quy định vô cùng nghiêm ngặt đã được khuyến cáo, quy định bởi các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế và tất cả các quốc gia với mục đích phát hiện, kiểm soát bất kỳ sự xuất hiện nào của các yếu tố có khả năng gây mất an toàn trong sản phẩm thực phẩm mà do quá trình sản xuất gây ra, bao gồm cả việc kiểm soát và chứng minh nguồn gốc nguyên liệu.
Hiện nay, ở Việt Nam, hệ thống các cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực TBT và SPS cũng được thành lập, hoạt động đầy đủ như tại các quốc gia khác, bao gồm: Cơ quan quản lý nhà nước là các Bộ quản lý chuyên ngành, lĩnh vực; mạng lưới các điểm hỏi đáp về TBT và SPS; Phòng thương mại và công nghiệp các nước, khu vực đặt tại Việt Nam; các Thương vụ Việt Nam đặt tại các nước, khu vực; các tổ chức tư vấn về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, thử nghiệm, chứng nhận sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Các cơ quan, tổ chức này được thành lập và hoạt động phù hợp với nhu cầu của thực tiễn để giải quyết các vấn đề về thương mại hàng hóa. Do đó, trong trường hợp cần thiết, doanh nghiệp cần tận dụng, liên hệ các cơ quan, tổ chức nêu trên để được giải đáp, hỗ trợ khi tìm hiểu và mở rộng thị trường hoặc được tư vấn, đánh giá bởi các dịch vụ kỹ thuật nhằm đảm bảo hàng hóa đáp ứng yêu cầu trước khi xuất khẩu, không đợi đến khi hàng hóa đã xuất đi mới phát hiện không đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu.
Một cách khác, doanh nghiệp Việt Nam có thể đặt câu hỏi trực tiếp cho các điểm hỏi đáp về TBT và SPS của các nước thông qua địa chỉ công khai trên trang web của WTO và của các nước. Đây cũng là một lựa chọn mà các doanh nghiệp nước ngoài thường sử dụng để đề nghị các cơ quan của Việt Nam trả lời trong quá trình họ tìm hiểu thị trường Việt Nam trước khi chuẩn bị xuất khẩu một hàng hóa.
Việc tham gia vào thương mại quốc tế là điều tất yếu mang lại lợi ích to lớn cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Do sự phức tạp của hệ thống các biện pháp, quy định của các nước, khu vực nên đôi khi việc không đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu cũng có thể xảy ra, kể cả ở những tập đoàn đa quốc gia có uy tín.
Tuy nhiên, để tránh thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng lâu dài đến uy tín của mình, doanh nghiệp xuất khẩu cần hết sức thận trọng, tìm hiểu kỹ về các quy định, các biện pháp TBT, SPS liên quan đến sản phẩm của từng thị trường thông qua hệ thống các cơ quan, tổ chức hỗ trợ, tư vấn. “Điều đó sẽ giảm thiểu tối đa cho doanh nghiệp về thời gian, chi phí, nhất là khi sản phẩm đã xuất khẩu đi nhưng bị áp dụng các quyết định thu hồi, kiện bồi thường vì không đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu” – đại diện Vụ Khoa học và Công nghệ nêu.
Nguồn ST
Nếu bạn cần hỗ trợ về xuất nhập khẩu hàng hoá quốc tế thì có thể liên hệ team Smartlink Logistics chúng mình nhé, để được hướng dẫn tư vấn dịch vụ cũng như các thủ tục hải quan liên quan cần thiết.
SMART LINK: BEST SERVICE BEST YOU